10 di sản tư liệu của Việt Nam

Quang Minh

Well-known member
Mộc bản triều Nguyễn, châu bản triều Nguyễn là những di sản tư liệu thế giới của Việt Nam do UNESCO vinh danh.

Mộc bản Triều Nguyễn là công trình mang tính bách khoa, vô giá, độc nhất và mang đậm dấu ấn thời cuộc. Đây là những tấm gỗ khắc chữ Hán hoặc chữ Nôm ngược để in ra thành sách được dùng phổ biến ở Việt Nam trong thời kỳ phong kiến.  Dưới triều Nguyễn do nhu cầu phổ biến rộng rãi các chuẩn mực của xã hội, các điều luật bắt nuộc thần dân phải tuân theo cũng như để lưu truyền công danh sự nghiệp của các vua chúa, các sự kiện lịch sử, triều đình đã cho biên soạn và khắc in rất nhiều các tác phẩm chính văn chính sử để truyền bá đi các nơi, trong quá trình hoạt động đó đã sản sinh ra một loại hình tài liệu đặc biệt, đó chính là Mộc bản Triều Nguyễn.Theo các nhà sử học, thành phần của tài liệu Mộc bản Triều Nguyễn, bao gồm những tài liệu được sản sinh trong quá trình hoạt động của các vua Triều Nguyễn, và một phần rất quan trọng của tài liệu Mộc bản được khắc trước Triều Nguyễn, được chuyển từ Văn Miếu Quốc tử Giám - Hà Nội, về lưu giữ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám ở Huế dưới triều vua Minh Mạng và Thiệu Trị.  Nội dung của tài liệu Mộc bản Triều Nguyễn rất phong phú và đa dạng, phản ánh mọi mặt xã hội Việt Nam dưới thời Phong kiến trên chín chuyên đề: lịch sử, địa lý, quân sự, pháp chế, văn thơ, tôn giáo - tư tưởng - triết học, ngôn ngữ - văn tự, chính trị - xã hội, văn hóa - giáo dục.Bản dập Đại Nam nhất thống chí. Ảnh: Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch


Bản ''Đại Nam nhất thống chí'', cung cấp tổng quát và đầy đủ những việc, sự tích của từng tỉnh, thành từ năm Thành Thái 18 (1906) trở về trước. Ảnh: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Việt Nam hiện có 10 tư liệu di sản được UNESCO công nhận, trong đó ba di sản tư liệu thế giới, bảy tư liệu thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Mộc bản triều Nguyễn nhận bằng di sản tư liệu thế giới đầu tiên vào năm 2009. Đây là những văn bản chữ Hán hoặc chữ Nôm khắc ngược trên gỗ để in thành sách, dùng phổ biến ở thời phong kiến.
Bản thảo trên mộc bản đều được hoàng đế trực tiếp ngự lãm, phê duyệt bằng bút tích trước khi giao cho thợ khắc lên gỗ quý. Tài liệu trong hồ sơ di sản viết: ''34.555 bản khắc mộc bản đã giúp lưu lại những tác phẩm chính văn, chính sử do triều Nguyễn biên soạn, các sách kinh điển và sách lịch sử. Ngoài mặt sử liệu, sách còn có giá trị về nghệ thuật, kỹ thuật chế tác".

Năm 2011, 82 bia tiến sĩ Văn Miếu nhận bằng di sản tư liệu thế giới. 82 chiếc bia tương ứng số khoa thi từ năm 1484 đến 1780, ghi tên các cá nhân đỗ đại khoa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhận định đây không chỉ là nguồn tư liệu phong phú, phản ánh một giai đoạn lịch sử hơn 300 năm dưới triều Lê - Mạc mà còn tạo nên bức tranh sinh động về việc tuyển chọn, đào tạo nhân tài.

Năm 2011, 82 bia tiến sĩ Văn Miếu nhận bằng di sản tư liệu thế giới. Ảnh: Văn Miếu Quốc tử Giám
82 chiếc bia tương ứng số khoa thi từ năm 1484 đến 1780, ghi tên các cá nhân đỗ đại khoa. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch nhận định đây không chỉ là nguồn tư liệu phong phú, phản ánh giai đoạn lịch sử hơn 300 năm dưới triều Lê - Mạc mà còn tạo nên bức tranh sinh động về việc tuyển chọn, đào tạo nhân tài.

Năm 2014, UNESCO công nhận hồ sơ Châu bản triều Nguyễn của Việt Nam là Di sản tư liệu. Theo Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, châu bản triều Nguyễn gồm các tập tấu, sớ, phụng thượng dụ, chiếu, chỉ dụ, tư trình, bẩm, truyền, sai, phó, khiển từ triều vua Gia Long năm 1802 đến cuối triều hoàng đế Bảo Đại năm 1945. Các văn bản được vua ngự lãm hoặc ngự phê bằng mực màu son, truyền đạt ý chỉ hay giải quyết những vấn đề trong quản trị đất nước. Đây là tài liệu hành chính gốc duy nhất ở Việt Nam, thuộc số ít trên thế giới còn lưu được bút tích phê duyệt trực tiếp của các hoàng đế trên văn bản. Hiện châu bản còn lại 86.000 văn bản gốc của 11 triều vua, trong đó 10 vua để lại bút tích phê duyệt bằng mực son. Hai triều của hoàng đế Dục Đức và Hiệp Hòa không có châu bản. Trong ảnh là châu bản năm Tự Đức thứ 12 (1859), cho thấy nỗi trăn trở của vua với các tướng sĩ nơi chiến trường. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

Châu bản năm Tự Đức thứ 12 (1859), cho thấy nỗi trăn trở của vua với các tướng sĩ nơi chiến trường. Ảnh: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I
Năm 2014, hồ sơ Châu bản triều Nguyễn của Việt Nam được công nhận là di sản tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ba năm sau, UNESCO tiếp tục vinh danh châu bản là di sản tư liệu thế giới.
Châu bản triều Nguyễn gồm các tập tấu, sớ, phụng thượng dụ, chiếu, chỉ dụ, tư trình, bẩm, truyền, sai, phó, khiển từ triều vua Gia Long năm 1802 đến cuối triều hoàng đế Bảo Đại năm 1945. Những văn bản được vua ngự lãm hoặc ngự phê bằng mực màu son, truyền đạt ý chỉ hay giải quyết các vấn đề trong quản trị đất nước.
Hiện châu bản còn lại 86.000 văn bản gốc của 11 triều vua, trong đó 10 vua để lại bút tích phê duyệt bằng mực son. Hai triều của hoàng đế Dục Đức và Hiệp Hòa không có châu bản. Tuy nhiên, trong một tọa đàm hồi tháng 4, đại diện Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I cho biết khối tài liệu đang xuống cấp, một số tập bị bết dính, đóng cục như gỗ.

Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm là di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp theo của Việt Nam vào năm 2012. Ảnh: Nguyễn Thiện Nhân Theo Cục di sản văn hóa, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chùa Vĩnh Nghiêm là trung tâm ấn hành lớn của Phật giáo trong nước. Hiện nơi đây còn lưu giữ 34 đầu sách với gần 3.000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt gồm hai trang sách (âm bản) khoảng 2.000 chữ Hán, Nôm. Cục di sản văn hóa nhận định mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đánh dấu quá trình phát triển của hệ thống văn tự Việt Nam, chuyển từ việc sử dụng chủ yếu chữ Hán sang coi trọng và động dùng chữ Nôm. Nội dung chính của kho mộc bản là những bộ kinh, sách, luật giới nhà Phật và trước tác của một số danh nhân, thiền sư đã sáng lập, chấn hưng, phát triển trung tâm Phật giáo Vĩnh Nghiêm trong nhiều thế kỷ, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển văn hóa, xã hội của một giai đoạn lịch sử Việt Nam, như: Trần Nhân Tông, Pháp loa Đồng Kim Cương, trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi.

Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm được UNESCO vinh danh là tư liệu thuộc Chương trình Ký ức thế giới Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, năm 2012. Ảnh: Nguyễn Thiện Nhân
Theo Cục Di sản Văn hóa, cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chùa Vĩnh Nghiêm là trung tâm xuất bản lớn của Phật giáo trong nước. Hiện nơi đây còn lưu giữ 34 đầu sách với gần 3.000 bản khắc, mỗi bản có hai mặt, mỗi mặt gồm hai trang sách (âm bản) khoảng 2.000 chữ Hán, Nôm. Cục Di sản Văn hóa nhận định mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm đánh dấu quá trình phát triển của hệ thống văn tự Việt Nam, chuyển từ việc sử dụng chủ yếu chữ Hán sang coi trọng và chủ động dùng chữ Nôm.

Mộc bản Trường học Phúc Giang Mộc bản Trường học Phúc Giang là khối mộc bản duy nhất, cổ nhất về giáo dục của một dòng họ còn lưu giữ được ở Việt Nam, hiện đang được bảo quản tại tư gia dòng học Nguyễn Huy (huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) và Bảo tàng Hà Tĩnh.Mộc bản được khắc tinh xảo, nét chữ đẹp, với nhiều dạng chữ như: Lệ thư, thảo thư, giản tự, cổ tự... Phần lớn mộc bản khắc hai mặt là nội dung sách, số ít khắc một mặt là tên sách, tờ đầu, tờ cuối và lời tựa sách. Nội dung mộc bản được các nhà giáo họ Nguyễn Huy rút gọn các quyển sách kinh điển của Nho giáo như Tính lý đại toàn, Ngũ kinh đại toàn, khắc lên gỗ để in thành sách dùng trong nhà trường và quyển sách Thư viện quy lệ (Quy chế của Trường Phúc Giang).Mộc bản Trường học Phúc Giang hiện còn 383 bản, được làm từ gỗ cây thị quý hiếm lâu năm, kích thước dài 25-30 cm, rộng 15-18 cm, dày từ 1-2 cm.Mộc bản Trường học Phúc Giang lưu giữ bút tích, ấn triện, gia huy và những dấu tích khẳng định bản quyền gắn với các danh nhân văn hóa: Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Cự, Nguyễn Huy Quýnh.Mộc bản trường học Phúc Giang là bộ ván khắc dùng để in sách giáo khoa phục vụ cho việc dạy và học, được hình thành trong quá trình hoạt động văn hóa của dòng họ Nguyễn Huy từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX tại Trường học Phúc Giang, làng Trường Lưu, xã Lai Thạch, huyện Thiên Lộc, nay thuộc xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.  Mộc bản trường học này có hơn 2.000 bản gỗ được khắc chữ Hán và Nôm ngược để in sách phục vụ việc giáo dục, khoa cử, chọn nhân tài cho quốc gia cuối thời hậu Lê, biên soạn do Nguyễn Huy Tựu, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Cự, Nguyễn Huy Quýnh và Nguyễn Huy Tự.  Mộc bản được làm bằng gỗ thị, được khắc chữ nổi ở cả 2 mặt trên ván. Mỗi bản mộc dài 30 cm, rộng 20 cm, dày 2 cm.  Theo ông Lê Bá Hạnh, phó giám đốc Bảo tàng tỉnh Hà Tĩnh, trước đây mộc bản Trường học Phúc Giang được chuyển về nhà thờ Nguyễn Huy Tựu với số lượng gần 1.700 bản.  Về sau, do nhận thức của nhân dân chưa cao nên nhiều bản bị chẻ làm củi đun nên nay chỉ còn 383 bản mộc.

Mộc bản Trường học Phúc Giang được công nhận là di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2016. Ảnh: Báo Chính phủ
Theo Cục Di sản Văn hóa, đây là khối mộc bản duy nhất và cổ nhất về giáo dục của một dòng họ ở Việt Nam từ thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 20 còn lưu giữ, hiện được bảo quản tại tư gia dòng họ Nguyễn Huy (huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) và bảo tàng Hà Tĩnh.
Mộc bản Trường Giang có 379 bản, được làm từ gỗ cây thị, kích thước dài 25-30 cm, rộng 15-18 cm, dày từ 1-2 cm, khắc chữ Hán ngược, in thành ba tập sách giáo khoa: ''Tính lý toản yếu đại toàn'', ''Ngũ kinh toản yếu đại toàn'' và ''Thư viện quy lệ'', phục vụ việc dạy và học của trường Phúc Giang (Hà Tĩnh).

Thơ văn được khảm cẩn ngà voi và xương ở nội thất điện Long AnTheo trang của UBND tỉnh Thừa Thiên Huế Các chuyên gia nhận xét: Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là một phong cách riêng trong trang trí kiến trúc cung đình, chưa thấy xuất hiện ở những nơi khác trên thế giới. Hệ thống di sản thơ văn này thật sự là một bảo tàng sống động, độc đáo, riêng có về văn chương thời Nguyễn. Nó chuyển tải những thông điệp lịch sử, văn hóa và nghệ thuật đặc sắc một giai đoạn trong lịch sử cận đại của Việt Nam. Đó là những tác phẩm nghệ thuật vô giá, một kho tàng sử liệu đồ sộ, một di sản hàm chứa nhiều giá trị quý báu cần được đặc biệt chú ý bảo tồn.

Thơ văn được khảm cẩn ngà voi và xương ở nội thất điện Long An. Ảnh: Ủy ban Nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế
Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế là di sản tư liệu thế giới thuộc chương trình ký ức khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2016.
Hệ thống này gồm hàng nghìn bài thơ, văn, câu đối tuyển chọn từ tác phẩm của các hoàng đế, thân vương, quan lại triều Nguyễn, được chạm khắc, tráng men hay đắp nổi trong giai đoạn 1802-1945, với nhiều chất liệu khác nhau, như gỗ, đồng, ngà voi, xương, sành sứ. Cục Di sản Văn hóa thống kê hiện ở cung đình Huế còn 2.967 ô thơ văn chạm khắc, sơn thếp trên gỗ, 146 ô thơ văn viết tráng men thành pháp lam, 88 đơn vị ô hộc, câu đối, bài văn đắp ngõa sành sứ.

Sách Hoàng hoa sứ trình đồ tổng hợp đầy đủ hành trình đi sứ Trung Hoa của Sứ bộ Đại Việt thế kỷ 18 do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh biên tập, hiệu đính và chú thích trong các năm 1765-1768, dựa vào tư liệu của nhiều thế hệ trước, đồng thời bổ sung những chi tiết liên quan chuyến đi năm 1766-1767 do ông làm Chánh sứ. Tập tư liệu được Nguyễn Huy Triển sao chép lại năm 1887 , hiện được dòng họ Nguyễn Huy lưu giữ. Năm 2018, cuốn sách được công nhận là di sản tư liệu của Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ảnh: Cục Di sản văn hóa  Hoàng hoa sứ trình đồ dài 30cm, rộng 20cm, dày 2cm, in bằng bản mộc trên giấy dó, được vẽ bằng ba loại màu.

Sách ''Hoàng hoa sứ trình đồ'' tổng hợp đầy đủ hành trình đi sứ Trung Hoa của Sứ bộ Đại Việt thế kỷ 18 do Thám hoa Nguyễn Huy Oánh biên tập, hiệu đính và chú thích trong các năm 1765-1768. Tập tư liệu được Nguyễn Huy Triển sao chép lại năm 1887, hiện do dòng họ Nguyễn Huy lưu giữ. Năm 2018, cuốn sách được công nhận là di sản tư liệu của Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ảnh: Cục Di sản Văn hóa

Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng

Bia ma nhai tại danh thắng Ngũ Hành Sơn, Đà Nẵng nhận bằng di sản tư liệu của Chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2022. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng
Đây là hệ thống gồm 76 bia bằng chữ Hán và hai bia chữ Nôm được khắc trên vách đá và hang động, có nội dung, hình thức độc đáo với nhiều thể loại như ngự bút, bia ký, thơ văn, đề từ, câu đối của vua, quan triều Nguyễn và bao thế hệ tao nhân, mặc khách từng dừng chân tại Ngũ Hành Sơn từ nửa đầu thế kỷ 19 đến thập niên 1960 của thế kỷ 20.

Di sản tư liệu thuộc chương trình Ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương thứ tám của Việt Nam là văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh. Ảnh: Đức Hùng Di sản gồm 48 văn bản chữ Hán, Nôm do ba dòng họ Nguyễn Huy, Trần Văn và Hoàng ở làng Trường Lưu, xã Trường Lộc cũ, nay là xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc sở hữu. Bộ sưu tập văn bản được viết bằng tay, gồm 26 sắc phong gốc được các vua triều Lê, Nguyễn ban tặng, 19 tờ văn bằng của chính quyền địa phương gửi làng Trường Lưu thời Nguyễn, ba bức trướng bằng lụa trao cho những cá nhân dịp mừng thọ, đỗ đạt.

Văn bản Hán Nôm làng Trường Lưu, Hà Tĩnh cũng là di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ảnh: Đức Hùng
Di sản gồm 48 văn bản chữ Hán, Nôm do ba dòng họ Nguyễn Huy, Trần Văn và Hoàng ở làng Trường Lưu, xã Trường Lộc cũ, nay là xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc sở hữu. Bộ sưu tập văn bản được viết bằng tay, gồm 26 sắc phong gốc được các vua triều Lê, Nguyễn ban tặng, 19 tờ văn bằng của chính quyền địa phương gửi làng Trường Lưu thời Nguyễn, ba bức trướng bằng lụa trao cho những cá nhân dịp mừng thọ, đỗ đạt.

Hôm 8/5, bản đúc nổi trên Cửu đỉnh ở Thế Tổ Miếu được UNESCO công nhận di sản tư liệu thế giới. Cửu đỉnh là chín chiếc đỉnh đồng lớn, được đặt trước sân Thế Tổ Miếu, ứng với chín gian thờ của các hoàng đế triều Nguyễn. Chín chiếc có hình dáng giống nhau: bầu tròn, cổ thắt, miệng loe; mỗi đỉnh cao 2,3-2,5 m; trọng lượng từ 3.200 đến hơn 4.300 kg.Vua Minh Mạng cho đúc bảo vật vào năm 1835, gồm 20.000 kg đồng, chì, kèm, hoàn thành sau hai năm, nhằm biểu thị sự trường tồn của triều đại, sự giàu đẹp và thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Năm 2012, Cửu đỉnh được công nhận là bảo vật quốc gia.

UNESCO công nhận bản đúc nổi trên Cửu đỉnh ở Thế Tổ Miếu là di sản tư liệu khu vực châu Á - Thái Bình Dương hôm 8/5.
''Cửu đỉnh'' là chín đỉnh đồng lớn, được đặt trước sân Thế Tổ Miếu, ứng với chín gian thờ của các hoàng đế triều Nguyễn, nhằm biểu thị sự trường tồn của triều đại, vẻ giàu đẹp và thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vua Minh Mạng cho đúc bảo vật vào năm 1835, gồm 20.000 kg đồng, chì, kẽm, hoàn thành sau hai năm. Năm 2012, ''Cửu đỉnh'' là bảo vật quốc gia. Ảnh: Võ Thạnh
 
Bên trên