khanh duy
Võ Khánh Duy
''Mảnh đất lắm người nhiều ma'' (Nguyễn Khắc Trường), "Con gái thủy thần" (Nguyễn Huy Thiệp) được bình chọn là những sáng tác nổi bật sau thống nhất.
14 cuốn tiểu thuyết, tập truyện ngắn, thơ thuộc danh sách 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu sau ngày thống nhất do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh, hôm 30/11.
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)
Tiểu thuyết được xuất bản lần đầu năm 1990 với tên gọi Thân phận của tình yêu, xoay quanh cuộc đời Kiên, chàng trai trẻ lãng mạn, nhiều khát vọng nhưng bị cuốn vào vòng xoáy khốc liệt của chiến tranh. Chứng kiến những mất mát, anh trở nên ám ảnh, không thể hòa nhập khi trở về thời bình.
Bìa ấn bản đặc biệt của ''Nỗi buồn chiến tranh''. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Tác phẩm từng được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Tuy nhiên, sách vấp phải nhiều cuộc tranh luận bởi góc nhìn mới của nhà văn về chiến tranh. Trên chiến trường, ông khắc họa nỗi đau mà phe ta lẫn địch đều phải đối diện. Nhân vật Kiên được ông đào sâu thế giới nội tâm với những dằn vặt, ẩn ức đời thường.
Việc Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh một lần nữa đặt tiểu thuyết và Bảo Ninh vào những cuộc tranh luận trên văn đàn. Trước ồn ào, nhà văn Bảo Ninh nói: ''Tôi chỉ là một người viết bình thường, không đại diện cho ai''. Là cựu chiến binh, ông cho biết luôn trân trọng đồng ngũ - những người đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc.
Mình và họ (Nguyễn Bình Phương)
Tiểu thuyết ra mắt năm 2014, có tên ban đầu là Xe lên xe xuống. Sách kể về hai chuyến xe của nhân vật Hiếu - người em của một tù binh trong chiến tranh biên giới phía Bắc. Chuyến đi lên là từ đồng bằng đến miền núi phía Bắc, Hiếu men theo dòng ghi chép rời rạc trong nhật ký của anh trai để tìm lại dấu chân hành quân mà anh mình để lại. Chuyến đi xuống là khi nhân vật bị áp giải về đồng bằng bởi bị nghi có liên can đến vụ án giết người.
Bìa cuốn ''Mình và họ''. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Nhiều người nhận xét tác phẩm khó đọc bởi tác giả áp dụng cấu trúc thời gian phi tuyến tính, lồng ghép hai câu chuyện đan xen giữa sống và chết, quá khứ và hiện tại. Thế giới trong sách được phân thành hai nửa: mình và họ, lên và xuống, nhưng ranh giới của sự phân tách này rất mỏng manh, khó phân định. Trong diễn biến phức tạp ấy, tác giả đặt ra những câu hỏi lớn về nguồn gốc của cái ác, chiến tranh.
Tiểu thuyết từng được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2015, giải nhất cuộc thi Sáng tác về biên giới, biển đảo từ 1975 đến năm 2020 do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.
Năm 2023, tác phẩm được chuyển ngữ và ra mắt ở Hàn Quốc. Theo trang Naver, Mình và họ là một cuốn tiểu thuyết đặt câu hỏi về ý nghĩa của chiến tranh, vết thương và sự hòa giải thông qua hành trình khó khăn của nhân vật chính.
Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh)
Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 2005, là cuốn tiểu thuyết về văn hóa, phong tục Việt Nam, thể hiện qua cuộc sống người dân ở một vùng quê bán sơn địa Bắc Bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Trong bối cảnh Pháp xâm lược Việt Nam, đạo Phật suy tàn, đạo Thiên chúa đang lan rộng, người dân trở về với đạo Mẫu - tín ngưỡng có nguồn gốc lâu đời.
Sách còn khắc họa Hà Nội cuối thế kỷ 19, câu chuyện tình yêu của những người đàn bà Việt trong làng cổ. Phó giáo sư, Tiến sĩ Cao Kim Lan nhận định tác phẩm ''nỗ lực tìm kiếm và dựng lại một không gian tinh thần mà từ đó, căn cốt tinh thần của người Việt được định hình''.
Sách từng đoạt GIải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2017. Ảnh: Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)
Tiểu thuyết ra đời năm 1990, được xem là một trong số tác phẩm xuất sắc của cố nhà văn Nguyễn Khắc Trường về đề tài nông thôn Việt Nam. Sách xoay quanh những cuộc đấu đá kéo dài giữa hai dòng họ Vũ Đình và Trịnh Bá. Do có mối thù từ đời ông cha, hai bên liên tục dùng chiêu trò hạ bệ nhau. Bên cạnh những mâu thuẫn của hai dòng họ, tác giả đề cập các vấn đề ở đời sống nông thôn, khắc họa thân phận người khốn khổ.
Bìa sách ''Mảnh đất lắm người nhiều ma''. Ảnh: Nhà xuất bản Hội Nhà văn
Tác phẩm giành Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, được chuyển thể thành phim Đất và người do Nguyễn Hữu Phần, Phạm Thanh Phong đạo diễn, phát sóng năm 2002. Năm 2017, vở Mảnh đất lắm người nhiều ma lên sân khấu Nhà hát Kịch Hà Nội, do Nhà giáo Ưu tú Lê Mạnh Hùng chuyển thể, Nghệ sĩ Nhân dân Lê Hùng dàn dựng.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - nhận định tiểu thuyết "đóng đinh vào nền văn học Việt Nam hiện đại", cho rằng những gì Nguyễn Khắc Trường viết trong tác phẩm giống như lời tiên tri về một thế giới chúng ta đang sống.
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
Sách được chia thành 19 phần, trải dài 365 ngày của gia đình ông Bằng - một người yêu nghệ thuật, luôn mong muốn giữ gìn, phát huy cái đẹp - cùng năm con trai. Diễn biến tiểu thuyết bắt đầu với những ngày giáp Tết năm Bính Tuất và kết thúc cũng là không khí sửa soạn cho Tết Nguyên đán năm Quý Hợi.
Qua tác phẩm, nhà văn Ma Văn Kháng đề cao vai trò của gia đình trong sự hình thành, phát triển của con người. Cừ - người con thứ tư của ông Bằng - không được sáng dạ, bị xem là nỗi bất hạnh của gia đình. Một lần bạn ông Bằng đến thăm và báo mất chiếc đồng hồ, ông khăng khăng kết tội cho con trai, đuổi Cừ ra khỏi nhà khi anh mới 13 tuổi. Tuổi thơ khắc nghiệt nên lúc trưởng thành, Cừ sống buông thả, vô kỷ luật, bỏ rơi vợ con. Cái chết của Cừ khiến ông Bằng nhận ra sai lầm trong cách giáo dục bảo thủ, lạc hậu của mình.
Tiểu thuyết xuất bản lần đầu năm 1982. Năm 2001, bộ phim dựa trên tác phẩm cùng tên và một chi tiết nhỏ trong cuốn "Đám cưới không có giấy giá thú" của nhà văn Ma Văn Kháng được phát sóng, do nghệ sĩ Quốc Trọng đạo diễn. Ảnh: Nhà xuất bản Kim Đồng
Tác giả vận dụng sự thay đổi qua bốn mùa để phản ánh những biến chuyển trong gia đình ông Bằng. Chẳng hạn, mùa xuân là lúc ông Bằng và người thân đón thành viên mới, hay mùa đông thêm lạnh lẽo khi gia đình vừa trải qua những mất mát. Mối quan hệ anh em, dâu rể, bạn bè, đồng nghiệp chịu tác động của đời sống mở cửa.
Nhà văn đặt mối quan hệ của những người cùng một nhà vào giai đoạn nhiều biến động của kinh tế thị trường, khẳng định tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi cá nhân. Ông viết: ''Hãy từ cửa sổ gia đình mình để nhìn ra cuộc đời, và từ cuộc đời hãy chiếu rọi ánh sáng vào mỗi căn nhà, như thế mọi điều sẽ sáng tỏ hơn''.
Con gái thủy thần (Nguyễn Huy Thiệp)
Truyện ngắn hiện thực lãng mạn huyền ảo của Nguyễn Huy Thiệp là hành trình đi tìm Mẹ Cả của Chương. Ở đoạn mở đầu, nhà văn giới thiệu nguồn gốc của nhân vật Mẹ Cả: ''Trận bão ấy, ở bãi Nổi trên sông Cái, sét đánh cụt ngọn cây muỗm đại thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long quấn chặt lấy nhau vẫy vùng làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm, có một đứa bé mới sinh đang nằm. Đứa bé ấy là con thủy thần để lại''.
Ấn phẩm được Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản năm 1993. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Quá trình tìm Mẹ Cả, Chương đối diện nhiều chuyện xui rủi, bất trắc nhưng có lúc gặp được người tốt, yêu thương anh thật lòng, nhưng đó không phải người anh cần tìm. Nửa cuộc đời trôi qua, anh vẫn mải chạy theo ảo vọng, nuôi hy vọng gặp lại người con gái thủy thần.
Khác văn học giai đoạn 1945-1975 chủ yếu là nội dung chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, phẩm chất người lao động trên mặt trận sản xuất, Con gái thủy thần khai thác câu chuyện đi tìm hạnh phúc trong cuộc đời con người. Nhân vật Mẹ Cả mang màu sắc huyền thoại, thoát khỏi hình tượng anh hùng của văn học trước đó. Qua tác phẩm, nhà văn cũng nhắn nhủ mỗi người đừng vì mơ mộng, ảo tưởng mà đánh mất những điều tốt đẹp.
Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu)
Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu)
Truyện kể về cuộc đời Cỏ - cậu bé mồ côi được ông nội nhặt về nuôi và đặt tên theo loài cỏ lau nơi cậu được tìm thấy. Từ nhỏ, cậu sống khép kín nhưng có tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn và nhiều mơ ước. Sau khi ông nội mất, Cỏ thu mình hơn, chỉ có người bạn duy nhất là nhân vật ''tôi''.
Dù chung ước mơ trở thành giáo viên, ''tôi'' lại mang khát vọng được lên thành phố, nơi có thể kiếm được nhiều tiền còn Cỏ mong muốn ở lại quê hương. Nhiều năm sau, ''tôi'' cũng trở về quê dạy học nhưng lúc này Cỏ đã mãi nằm lại ở đồi Cỏ Lau. Chi tiết để lại cho bạn đọc nỗi tiếc nuối về một cuộc đời dang dở.
Truyện ngắn ''Cỏ lau'' được nhà văn Nguyễn Minh Châu viết năm 1987, in năm 1989, sau khi ông mất. Ảnh: Nhà xuất bản Văn học
Trong truyện, tác giả sử dụng các tình huống đối lập để gợi nhiều suy ngẫm cho độc giả, đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật, trong đó Cỏ mang nhiều nỗi đau nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sáng. Tác phẩm không chỉ là câu chuyện về tình bạn, ước mơ tuổi trẻ mà còn là bức tranh thu nhỏ về số phận con người ở bối cảnh xã hội còn nhiều khó khăn.
Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)
Tập truyện của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được xuất bản vào năm 2005, gồm những câu chuyện về cuộc đời người dân Nam Bộ, ngày đêm lênh đênh với sông nước. Trong đó, truyện ngắn Cánh đồng bất tận để lại nhiều day dứt với người đọc.
Tác phẩm kể về Út Vũ - người thợ mộc hiền lành nhưng bị vợ phụ bạc. Ông dắt theo hai con Điền, Nương đi chăn vịt trên chiếc thuyền nhỏ, đến những cánh đồng mênh mông, tĩnh lặng. Một ngày, Điền và Nương gặp Sương - cô gái điếm bị vứt bỏ, đánh đập, người đem lại hơi ấm tình thương cho họ. Dù cố gắng chứng tỏ tình yêu của mình với Út Vũ, cô chỉ nhận lại sự khinh rẻ.
Loạt biến cố xảy đến sau đó, nhất là chi tiết Nương bị cưỡng hiếp khiến người đọc ám ảnh. Hình ảnh Út Vũ dò dẫm đắp chiếc áo cho con gái giữa cánh đồng hoang vắng thể hiện nỗi đau đớn bất tận, sự xót xa, tình yêu thương dành cho người con mà bấy lâu ông không bận tâm.
Cuối truyện, Nương nghĩ rằng nếu có thai, cô sẽ đặt tên con là Thương, Nhớ, Dịu, Xuyến. Dù không có cha, đứa trẻ sẽ sống vui vì ''được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn''. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi buồn mênh mang song cái kết mở khắc họa sự bao dung, thắp lên khát vọng sống của nhân vật.
Tập truyện ngắn đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho Tác phẩm xuất sắc, năm 2006. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ.
Năm 2010, phim điện ảnh Cánh đồng bất tận dựa trên nội dung của truyện ngắn cùng tên ra mắt, tạo hiệu ứng tích cực, lấy nước mắt nhiều người xem. Tác phẩm thắng giải Cánh Diều Bạc năm 2010, đồng thời tranh giải ở nhánh chính New Currents tại LHP Busan (Hàn Quốc).
Thời xa vắng (Lê Lựu)
Tiểu thuyết ra đời năm 1986, xoay quanh cuộc đời Giang Minh Sài - anh nông dân học giỏi, là niềm tự hào của gia đình, dòng họ nhưng chịu nhiều áp lực từ người thân. Năm lên 12, anh bị bố mẹ ép cưới Tuyết - cô gái hơn mình ba tuổi, sống trong cảnh ngột ngại vì không có tình cảm. Cuộc đời Sài thay đổi lúc gặp Hương - người con gái anh thực sự yêu.
Khi hòa bình, Sài ly hôn Tuyết và kết hôn Châu - một người yêu khác. Bi kịch xảy ra khi anh phát hiện con gái mình là con ruột của Châu và tình cũ. Cuối cùng, Sài chọn trở về quê hương.
Bìa sách ''Thời xa vắng''. Năm 2004, bộ phim cùng tên được chuyển thể từ tiểu thuyết lên sóng, do Hồ Quang Minh đạo diễn và viết kịch bản. Ảnh: Sbooks
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều nhận định Thời xa vắng là bước ngoặt lớn của nền văn học nước nhà. ''Tác phẩm truyền tải thông điệp con người chỉ là người đúng nghĩa khi họ được sống là chính họ, chứ không phải sống bằng những giá trị của người khác", ông nói.
Tác phẩm gây tiếng vang lớn khi xuất hiện, tạo ra một "tiếng sét trên cánh đồng chữ nghĩa vốn khá cằn khô và báo hiệu một thời tiết khác cho mùa màng văn chương", theo nhà văn Bích Ngân. Tác giả Lê Lựu đặt nhân vật vào bối cảnh chiến tranh, thời bao cấp, những quan niệm, hủ tục khiến họ không được sống là chính mình. Diễn biến truyện chậm rãi, không có nhân vật phản diện song thu hút người đọc bởi khiến họ nhìn thấy phảng phất bóng dáng bản thân trong đó.
Bến không chồng (Dương Hướng)
Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở làng Đông - nơi mang đậm văn hóa làng xã Bắc Bộ với cây đa, giếng nước, sân đình, khắc họa nỗi đau của con người thời hậu chiến khi đối diện những định kiến xã hội. Nguyễn Vạn trở về làng sau chiến thắng Điện Biên Phủ với tấm ngực đầy huân chương, được người dân kính trọng. Tuy nhiên, những lề thói cổ hủ ở làng quê đã cản trở khát khao tình cảm đời thường của Vạn. Nhà văn Dương Hướng còn khắc họa thân phận những phụ nữ mòn mỏi chờ chồng nơi chiến trường, gồng gánh nuôi con, chịu nhiều nỗi đau vì định kiến khắc nghiệt của xã hội.
Bìa tiểu thuyết ''Bến không chồng''. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Sách từng đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, được đạo diễn Lưu Trọng Ninh chuyển thể thành phim nhựa cùng tên, ra mắt năm 2000 và series Thương nhớ ở ai (2017). Hồi tháng 5, tiểu thuyết có bản dịch tiếng Anh do giáo sư Hà Mạnh Quân và Charles Waugh chuyển ngữ, nhà xuất bản Penguin Random House Đông Nam Á phát hành toàn cầu.
Đảo chìm (Trần Đăng Khoa)
Ấn phẩm ghi lại những câu chuyện về Trường Sa, được nhà thơ Trần Đăng Khoa coi là tác phẩm văn xuôi mang tính thử nghiệm của mình. Mỗi chương sách, ông mang đến các mẩu chuyện đời thường, giàu cảm xúc, tôn vinh hình ảnh người lính ngày đêm bảo vệ biển đảo.
Trong truyện, tác giả không xây dựng các tuyến nhân vật riêng biệt mà chỉ có tình yêu thương của các đồng đội với nhau, cán bộ và chiến sĩ, thậm chí giữa những người trên đảo dành cho cây rau, con vật mà họ chăm sóc. Sau 25 năm ra đời đến nay, Đảo chìm đã được tái bản 49 lần, cho thấy sức sống của tác phẩm theo thời gian.
''Đảo chìm'' thuộc Tủ sách biển đảo Việt Nam của Nhà xuất bản Kim Đồng. Ảnh: NXB
Những người đi tới biển (Thanh Thảo)
Trong trường ca, nhà thơ Thanh Thảo viết về chiến tranh và hình tượng người lính. Tác phẩm gồm ba chương, trong đó bài Khúc bảy ở chương hai để lại nhiều cảm xúc cho người đọc. Ông tôn vinh thế hệ ''sống mãi tuổi hai mươi'', những người hy sinh tuổi thanh xuân cho đất nước: ''Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?''.
Yếu tố sử thi được Thanh Thảo sử dụng như một biện pháp nghệ thuật để ông viết nên những bản trường ca bi tráng. Hình tượng người lính trở thành trung tâm, hội tụ những phẩm chất cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng, đại diện cho cộng đồng và thời đại.
Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh)
Trường ca xuất hiện lần đầu trong tập thơ Từ chiến hào tới thành phố (1985) của nhà thơ Hữu Thỉnh, trọng tâm là cái tôi trữ tình của tác giả trên nền sự kiện chính là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Tác phẩm gồm hai tuyến nhân vật trữ tình, trong đó những người đàn ông là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Đó là anh bộ đội cụ Hồ ngày đêm chiến đấu để giành lại hòa bình cho dân tộc. Theo nhà thơ, hiện thực chiến tranh chỉ là cái cớ để ông dựng lên đời sống tinh thần người lính trong bối cảnh khốc liệt nhất, từ đó làm nổi bật tình yêu của họ dành cho quê hương, đất nước.
Tuyến nhân vật trữ tình còn lại là những phụ nữ được hiện diện trong ký ức, tình yêu, nỗi nhớ, phút suy tư của người lính. Họ là điểm tựa tinh thần vững chãi để các chiến sĩ vượt qua gian khổ thời chiến: ''Em không phải sau lưng/ Em đang ngồi trước mặt/ Bởi anh biết, em ơi anh biết/ Cuối chặng đường là nỗi nhớ gặp nhau'', ''Em ơi em, em là biển của đời anh/ Là vụng kín/ Là bến bờ nương tựa''.
Nhiều đoạn trong trường ca được tác giả viết từ trải nghiệm cá nhân. Hình ảnh người mẹ quê nhà chính là mẹ ông, người chị chờ chồng là chị dâu của nhà thơ. Ông viết nhiều về hậu phương bởi nhận ra cuộc chiến không chỉ có sự hy sinh của người lính mà còn gây ra những mất mát, dằn vặt của người ở lại. Khi viết, ông đọc thêm trường ca của các tác giả như Nguyễn Đình Thi, Thu Bồn, Thanh Thảo, mở lại các nhật ký chiến tranh của mình để có thêm tư liệu.
Tiếng hát tháng giêng (Y Phương)
Tập thơ ra mắt năm 1986, đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987. Tác phẩm thể hiện tình cảm, sự trân trọng của tác giả dành cho quê hương, đất nước.
Nhà thơ Y Phương không tập trung miêu tả cảnh sắc, phong tục tập quán, vẻ đẹp con người mà đi sâu khẳng định giá trị, sức sống của tiếng hát quê hương. Lời thơ giàu tình cảm, chân thành, như xuất phát từ chính cảm xúc của tác giả: ''Sửa khăn áo đi em/ câu hát tháng giêng cất vào hoa đá/ đứng vững ở đây mà chiến đấu tựa lưng vào màu đỏ chiến hào/ ta nhất quyết không lùi/ cả đất nước trong bàn tay ta giữ/ câu hát này thiêng liêng lắm chứ/ hát bây giờ còn để hát mai sau''. Qua đó, ông khơi gợi, bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước cho bạn đọc.
14 cuốn tiểu thuyết, tập truyện ngắn, thơ thuộc danh sách 50 tác phẩm văn học, nghệ thuật biểu diễn tiêu biểu sau ngày thống nhất do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh, hôm 30/11.
Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)
Tiểu thuyết được xuất bản lần đầu năm 1990 với tên gọi Thân phận của tình yêu, xoay quanh cuộc đời Kiên, chàng trai trẻ lãng mạn, nhiều khát vọng nhưng bị cuốn vào vòng xoáy khốc liệt của chiến tranh. Chứng kiến những mất mát, anh trở nên ám ảnh, không thể hòa nhập khi trở về thời bình.
Bìa ấn bản đặc biệt của ''Nỗi buồn chiến tranh''. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Tác phẩm từng được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Tuy nhiên, sách vấp phải nhiều cuộc tranh luận bởi góc nhìn mới của nhà văn về chiến tranh. Trên chiến trường, ông khắc họa nỗi đau mà phe ta lẫn địch đều phải đối diện. Nhân vật Kiên được ông đào sâu thế giới nội tâm với những dằn vặt, ẩn ức đời thường.
Việc Nỗi buồn chiến tranh được vinh danh một lần nữa đặt tiểu thuyết và Bảo Ninh vào những cuộc tranh luận trên văn đàn. Trước ồn ào, nhà văn Bảo Ninh nói: ''Tôi chỉ là một người viết bình thường, không đại diện cho ai''. Là cựu chiến binh, ông cho biết luôn trân trọng đồng ngũ - những người đã chiến đấu, hy sinh vì độc lập dân tộc.
Mình và họ (Nguyễn Bình Phương)
Tiểu thuyết ra mắt năm 2014, có tên ban đầu là Xe lên xe xuống. Sách kể về hai chuyến xe của nhân vật Hiếu - người em của một tù binh trong chiến tranh biên giới phía Bắc. Chuyến đi lên là từ đồng bằng đến miền núi phía Bắc, Hiếu men theo dòng ghi chép rời rạc trong nhật ký của anh trai để tìm lại dấu chân hành quân mà anh mình để lại. Chuyến đi xuống là khi nhân vật bị áp giải về đồng bằng bởi bị nghi có liên can đến vụ án giết người.
Bìa cuốn ''Mình và họ''. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Nhiều người nhận xét tác phẩm khó đọc bởi tác giả áp dụng cấu trúc thời gian phi tuyến tính, lồng ghép hai câu chuyện đan xen giữa sống và chết, quá khứ và hiện tại. Thế giới trong sách được phân thành hai nửa: mình và họ, lên và xuống, nhưng ranh giới của sự phân tách này rất mỏng manh, khó phân định. Trong diễn biến phức tạp ấy, tác giả đặt ra những câu hỏi lớn về nguồn gốc của cái ác, chiến tranh.
Tiểu thuyết từng được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2015, giải nhất cuộc thi Sáng tác về biên giới, biển đảo từ 1975 đến năm 2020 do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức.
Năm 2023, tác phẩm được chuyển ngữ và ra mắt ở Hàn Quốc. Theo trang Naver, Mình và họ là một cuốn tiểu thuyết đặt câu hỏi về ý nghĩa của chiến tranh, vết thương và sự hòa giải thông qua hành trình khó khăn của nhân vật chính.
Mẫu thượng ngàn (Nguyễn Xuân Khánh)
Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 2005, là cuốn tiểu thuyết về văn hóa, phong tục Việt Nam, thể hiện qua cuộc sống người dân ở một vùng quê bán sơn địa Bắc Bộ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Trong bối cảnh Pháp xâm lược Việt Nam, đạo Phật suy tàn, đạo Thiên chúa đang lan rộng, người dân trở về với đạo Mẫu - tín ngưỡng có nguồn gốc lâu đời.
Sách còn khắc họa Hà Nội cuối thế kỷ 19, câu chuyện tình yêu của những người đàn bà Việt trong làng cổ. Phó giáo sư, Tiến sĩ Cao Kim Lan nhận định tác phẩm ''nỗ lực tìm kiếm và dựng lại một không gian tinh thần mà từ đó, căn cốt tinh thần của người Việt được định hình''.
Sách từng đoạt GIải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006, Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật năm 2017. Ảnh: Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam
Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)
Tiểu thuyết ra đời năm 1990, được xem là một trong số tác phẩm xuất sắc của cố nhà văn Nguyễn Khắc Trường về đề tài nông thôn Việt Nam. Sách xoay quanh những cuộc đấu đá kéo dài giữa hai dòng họ Vũ Đình và Trịnh Bá. Do có mối thù từ đời ông cha, hai bên liên tục dùng chiêu trò hạ bệ nhau. Bên cạnh những mâu thuẫn của hai dòng họ, tác giả đề cập các vấn đề ở đời sống nông thôn, khắc họa thân phận người khốn khổ.
Bìa sách ''Mảnh đất lắm người nhiều ma''. Ảnh: Nhà xuất bản Hội Nhà văn
Tác phẩm giành Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, được chuyển thể thành phim Đất và người do Nguyễn Hữu Phần, Phạm Thanh Phong đạo diễn, phát sóng năm 2002. Năm 2017, vở Mảnh đất lắm người nhiều ma lên sân khấu Nhà hát Kịch Hà Nội, do Nhà giáo Ưu tú Lê Mạnh Hùng chuyển thể, Nghệ sĩ Nhân dân Lê Hùng dàn dựng.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - nhận định tiểu thuyết "đóng đinh vào nền văn học Việt Nam hiện đại", cho rằng những gì Nguyễn Khắc Trường viết trong tác phẩm giống như lời tiên tri về một thế giới chúng ta đang sống.
Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)
Sách được chia thành 19 phần, trải dài 365 ngày của gia đình ông Bằng - một người yêu nghệ thuật, luôn mong muốn giữ gìn, phát huy cái đẹp - cùng năm con trai. Diễn biến tiểu thuyết bắt đầu với những ngày giáp Tết năm Bính Tuất và kết thúc cũng là không khí sửa soạn cho Tết Nguyên đán năm Quý Hợi.
Qua tác phẩm, nhà văn Ma Văn Kháng đề cao vai trò của gia đình trong sự hình thành, phát triển của con người. Cừ - người con thứ tư của ông Bằng - không được sáng dạ, bị xem là nỗi bất hạnh của gia đình. Một lần bạn ông Bằng đến thăm và báo mất chiếc đồng hồ, ông khăng khăng kết tội cho con trai, đuổi Cừ ra khỏi nhà khi anh mới 13 tuổi. Tuổi thơ khắc nghiệt nên lúc trưởng thành, Cừ sống buông thả, vô kỷ luật, bỏ rơi vợ con. Cái chết của Cừ khiến ông Bằng nhận ra sai lầm trong cách giáo dục bảo thủ, lạc hậu của mình.
Tiểu thuyết xuất bản lần đầu năm 1982. Năm 2001, bộ phim dựa trên tác phẩm cùng tên và một chi tiết nhỏ trong cuốn "Đám cưới không có giấy giá thú" của nhà văn Ma Văn Kháng được phát sóng, do nghệ sĩ Quốc Trọng đạo diễn. Ảnh: Nhà xuất bản Kim Đồng
Tác giả vận dụng sự thay đổi qua bốn mùa để phản ánh những biến chuyển trong gia đình ông Bằng. Chẳng hạn, mùa xuân là lúc ông Bằng và người thân đón thành viên mới, hay mùa đông thêm lạnh lẽo khi gia đình vừa trải qua những mất mát. Mối quan hệ anh em, dâu rể, bạn bè, đồng nghiệp chịu tác động của đời sống mở cửa.
Nhà văn đặt mối quan hệ của những người cùng một nhà vào giai đoạn nhiều biến động của kinh tế thị trường, khẳng định tầm quan trọng của gia đình đối với mỗi cá nhân. Ông viết: ''Hãy từ cửa sổ gia đình mình để nhìn ra cuộc đời, và từ cuộc đời hãy chiếu rọi ánh sáng vào mỗi căn nhà, như thế mọi điều sẽ sáng tỏ hơn''.
Con gái thủy thần (Nguyễn Huy Thiệp)
Truyện ngắn hiện thực lãng mạn huyền ảo của Nguyễn Huy Thiệp là hành trình đi tìm Mẹ Cả của Chương. Ở đoạn mở đầu, nhà văn giới thiệu nguồn gốc của nhân vật Mẹ Cả: ''Trận bão ấy, ở bãi Nổi trên sông Cái, sét đánh cụt ngọn cây muỗm đại thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long quấn chặt lấy nhau vẫy vùng làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm, có một đứa bé mới sinh đang nằm. Đứa bé ấy là con thủy thần để lại''.
Ấn phẩm được Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản năm 1993. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Quá trình tìm Mẹ Cả, Chương đối diện nhiều chuyện xui rủi, bất trắc nhưng có lúc gặp được người tốt, yêu thương anh thật lòng, nhưng đó không phải người anh cần tìm. Nửa cuộc đời trôi qua, anh vẫn mải chạy theo ảo vọng, nuôi hy vọng gặp lại người con gái thủy thần.
Khác văn học giai đoạn 1945-1975 chủ yếu là nội dung chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, phẩm chất người lao động trên mặt trận sản xuất, Con gái thủy thần khai thác câu chuyện đi tìm hạnh phúc trong cuộc đời con người. Nhân vật Mẹ Cả mang màu sắc huyền thoại, thoát khỏi hình tượng anh hùng của văn học trước đó. Qua tác phẩm, nhà văn cũng nhắn nhủ mỗi người đừng vì mơ mộng, ảo tưởng mà đánh mất những điều tốt đẹp.
Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu)
Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu)
Truyện kể về cuộc đời Cỏ - cậu bé mồ côi được ông nội nhặt về nuôi và đặt tên theo loài cỏ lau nơi cậu được tìm thấy. Từ nhỏ, cậu sống khép kín nhưng có tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn và nhiều mơ ước. Sau khi ông nội mất, Cỏ thu mình hơn, chỉ có người bạn duy nhất là nhân vật ''tôi''.
Dù chung ước mơ trở thành giáo viên, ''tôi'' lại mang khát vọng được lên thành phố, nơi có thể kiếm được nhiều tiền còn Cỏ mong muốn ở lại quê hương. Nhiều năm sau, ''tôi'' cũng trở về quê dạy học nhưng lúc này Cỏ đã mãi nằm lại ở đồi Cỏ Lau. Chi tiết để lại cho bạn đọc nỗi tiếc nuối về một cuộc đời dang dở.
Truyện ngắn ''Cỏ lau'' được nhà văn Nguyễn Minh Châu viết năm 1987, in năm 1989, sau khi ông mất. Ảnh: Nhà xuất bản Văn học
Trong truyện, tác giả sử dụng các tình huống đối lập để gợi nhiều suy ngẫm cho độc giả, đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm của nhân vật, trong đó Cỏ mang nhiều nỗi đau nhưng vẫn giữ được tâm hồn trong sáng. Tác phẩm không chỉ là câu chuyện về tình bạn, ước mơ tuổi trẻ mà còn là bức tranh thu nhỏ về số phận con người ở bối cảnh xã hội còn nhiều khó khăn.
Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư)
Tập truyện của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được xuất bản vào năm 2005, gồm những câu chuyện về cuộc đời người dân Nam Bộ, ngày đêm lênh đênh với sông nước. Trong đó, truyện ngắn Cánh đồng bất tận để lại nhiều day dứt với người đọc.
Tác phẩm kể về Út Vũ - người thợ mộc hiền lành nhưng bị vợ phụ bạc. Ông dắt theo hai con Điền, Nương đi chăn vịt trên chiếc thuyền nhỏ, đến những cánh đồng mênh mông, tĩnh lặng. Một ngày, Điền và Nương gặp Sương - cô gái điếm bị vứt bỏ, đánh đập, người đem lại hơi ấm tình thương cho họ. Dù cố gắng chứng tỏ tình yêu của mình với Út Vũ, cô chỉ nhận lại sự khinh rẻ.
Loạt biến cố xảy đến sau đó, nhất là chi tiết Nương bị cưỡng hiếp khiến người đọc ám ảnh. Hình ảnh Út Vũ dò dẫm đắp chiếc áo cho con gái giữa cánh đồng hoang vắng thể hiện nỗi đau đớn bất tận, sự xót xa, tình yêu thương dành cho người con mà bấy lâu ông không bận tâm.
Cuối truyện, Nương nghĩ rằng nếu có thai, cô sẽ đặt tên con là Thương, Nhớ, Dịu, Xuyến. Dù không có cha, đứa trẻ sẽ sống vui vì ''được mẹ dạy, là trẻ con, đôi khi nên tha thứ lỗi lầm của người lớn''. Xuyên suốt tác phẩm là nỗi buồn mênh mang song cái kết mở khắc họa sự bao dung, thắp lên khát vọng sống của nhân vật.
Tập truyện ngắn đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam cho Tác phẩm xuất sắc, năm 2006. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ.
Năm 2010, phim điện ảnh Cánh đồng bất tận dựa trên nội dung của truyện ngắn cùng tên ra mắt, tạo hiệu ứng tích cực, lấy nước mắt nhiều người xem. Tác phẩm thắng giải Cánh Diều Bạc năm 2010, đồng thời tranh giải ở nhánh chính New Currents tại LHP Busan (Hàn Quốc).
Thời xa vắng (Lê Lựu)
Tiểu thuyết ra đời năm 1986, xoay quanh cuộc đời Giang Minh Sài - anh nông dân học giỏi, là niềm tự hào của gia đình, dòng họ nhưng chịu nhiều áp lực từ người thân. Năm lên 12, anh bị bố mẹ ép cưới Tuyết - cô gái hơn mình ba tuổi, sống trong cảnh ngột ngại vì không có tình cảm. Cuộc đời Sài thay đổi lúc gặp Hương - người con gái anh thực sự yêu.
Khi hòa bình, Sài ly hôn Tuyết và kết hôn Châu - một người yêu khác. Bi kịch xảy ra khi anh phát hiện con gái mình là con ruột của Châu và tình cũ. Cuối cùng, Sài chọn trở về quê hương.
Bìa sách ''Thời xa vắng''. Năm 2004, bộ phim cùng tên được chuyển thể từ tiểu thuyết lên sóng, do Hồ Quang Minh đạo diễn và viết kịch bản. Ảnh: Sbooks
Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam Nguyễn Quang Thiều nhận định Thời xa vắng là bước ngoặt lớn của nền văn học nước nhà. ''Tác phẩm truyền tải thông điệp con người chỉ là người đúng nghĩa khi họ được sống là chính họ, chứ không phải sống bằng những giá trị của người khác", ông nói.
Tác phẩm gây tiếng vang lớn khi xuất hiện, tạo ra một "tiếng sét trên cánh đồng chữ nghĩa vốn khá cằn khô và báo hiệu một thời tiết khác cho mùa màng văn chương", theo nhà văn Bích Ngân. Tác giả Lê Lựu đặt nhân vật vào bối cảnh chiến tranh, thời bao cấp, những quan niệm, hủ tục khiến họ không được sống là chính mình. Diễn biến truyện chậm rãi, không có nhân vật phản diện song thu hút người đọc bởi khiến họ nhìn thấy phảng phất bóng dáng bản thân trong đó.
Bến không chồng (Dương Hướng)
Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở làng Đông - nơi mang đậm văn hóa làng xã Bắc Bộ với cây đa, giếng nước, sân đình, khắc họa nỗi đau của con người thời hậu chiến khi đối diện những định kiến xã hội. Nguyễn Vạn trở về làng sau chiến thắng Điện Biên Phủ với tấm ngực đầy huân chương, được người dân kính trọng. Tuy nhiên, những lề thói cổ hủ ở làng quê đã cản trở khát khao tình cảm đời thường của Vạn. Nhà văn Dương Hướng còn khắc họa thân phận những phụ nữ mòn mỏi chờ chồng nơi chiến trường, gồng gánh nuôi con, chịu nhiều nỗi đau vì định kiến khắc nghiệt của xã hội.
Bìa tiểu thuyết ''Bến không chồng''. Ảnh: Nhà xuất bản Trẻ
Sách từng đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991, được đạo diễn Lưu Trọng Ninh chuyển thể thành phim nhựa cùng tên, ra mắt năm 2000 và series Thương nhớ ở ai (2017). Hồi tháng 5, tiểu thuyết có bản dịch tiếng Anh do giáo sư Hà Mạnh Quân và Charles Waugh chuyển ngữ, nhà xuất bản Penguin Random House Đông Nam Á phát hành toàn cầu.
Đảo chìm (Trần Đăng Khoa)
Ấn phẩm ghi lại những câu chuyện về Trường Sa, được nhà thơ Trần Đăng Khoa coi là tác phẩm văn xuôi mang tính thử nghiệm của mình. Mỗi chương sách, ông mang đến các mẩu chuyện đời thường, giàu cảm xúc, tôn vinh hình ảnh người lính ngày đêm bảo vệ biển đảo.
Trong truyện, tác giả không xây dựng các tuyến nhân vật riêng biệt mà chỉ có tình yêu thương của các đồng đội với nhau, cán bộ và chiến sĩ, thậm chí giữa những người trên đảo dành cho cây rau, con vật mà họ chăm sóc. Sau 25 năm ra đời đến nay, Đảo chìm đã được tái bản 49 lần, cho thấy sức sống của tác phẩm theo thời gian.
''Đảo chìm'' thuộc Tủ sách biển đảo Việt Nam của Nhà xuất bản Kim Đồng. Ảnh: NXB
Những người đi tới biển (Thanh Thảo)
Trong trường ca, nhà thơ Thanh Thảo viết về chiến tranh và hình tượng người lính. Tác phẩm gồm ba chương, trong đó bài Khúc bảy ở chương hai để lại nhiều cảm xúc cho người đọc. Ông tôn vinh thế hệ ''sống mãi tuổi hai mươi'', những người hy sinh tuổi thanh xuân cho đất nước: ''Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?''.
Yếu tố sử thi được Thanh Thảo sử dụng như một biện pháp nghệ thuật để ông viết nên những bản trường ca bi tráng. Hình tượng người lính trở thành trung tâm, hội tụ những phẩm chất cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng, đại diện cho cộng đồng và thời đại.
Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh)
Trường ca xuất hiện lần đầu trong tập thơ Từ chiến hào tới thành phố (1985) của nhà thơ Hữu Thỉnh, trọng tâm là cái tôi trữ tình của tác giả trên nền sự kiện chính là Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Tác phẩm gồm hai tuyến nhân vật trữ tình, trong đó những người đàn ông là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Đó là anh bộ đội cụ Hồ ngày đêm chiến đấu để giành lại hòa bình cho dân tộc. Theo nhà thơ, hiện thực chiến tranh chỉ là cái cớ để ông dựng lên đời sống tinh thần người lính trong bối cảnh khốc liệt nhất, từ đó làm nổi bật tình yêu của họ dành cho quê hương, đất nước.
Tuyến nhân vật trữ tình còn lại là những phụ nữ được hiện diện trong ký ức, tình yêu, nỗi nhớ, phút suy tư của người lính. Họ là điểm tựa tinh thần vững chãi để các chiến sĩ vượt qua gian khổ thời chiến: ''Em không phải sau lưng/ Em đang ngồi trước mặt/ Bởi anh biết, em ơi anh biết/ Cuối chặng đường là nỗi nhớ gặp nhau'', ''Em ơi em, em là biển của đời anh/ Là vụng kín/ Là bến bờ nương tựa''.
Nhiều đoạn trong trường ca được tác giả viết từ trải nghiệm cá nhân. Hình ảnh người mẹ quê nhà chính là mẹ ông, người chị chờ chồng là chị dâu của nhà thơ. Ông viết nhiều về hậu phương bởi nhận ra cuộc chiến không chỉ có sự hy sinh của người lính mà còn gây ra những mất mát, dằn vặt của người ở lại. Khi viết, ông đọc thêm trường ca của các tác giả như Nguyễn Đình Thi, Thu Bồn, Thanh Thảo, mở lại các nhật ký chiến tranh của mình để có thêm tư liệu.
Tiếng hát tháng giêng (Y Phương)
Tập thơ ra mắt năm 1986, đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1987. Tác phẩm thể hiện tình cảm, sự trân trọng của tác giả dành cho quê hương, đất nước.
Nhà thơ Y Phương không tập trung miêu tả cảnh sắc, phong tục tập quán, vẻ đẹp con người mà đi sâu khẳng định giá trị, sức sống của tiếng hát quê hương. Lời thơ giàu tình cảm, chân thành, như xuất phát từ chính cảm xúc của tác giả: ''Sửa khăn áo đi em/ câu hát tháng giêng cất vào hoa đá/ đứng vững ở đây mà chiến đấu tựa lưng vào màu đỏ chiến hào/ ta nhất quyết không lùi/ cả đất nước trong bàn tay ta giữ/ câu hát này thiêng liêng lắm chứ/ hát bây giờ còn để hát mai sau''. Qua đó, ông khơi gợi, bồi đắp tình yêu quê hương, đất nước cho bạn đọc.