Nguyễn Thị Hồng
Well-known member
Sau ba tháng mưa tầm tã, khoảng đầu tháng chạp, ở Quảng Ngãi quê tôi, trời bắt đầu tạnh ráo.
Có hôm mặt trời ló dạng, chiếu vài tia nắng yếu ớt lên mặt đất ẩm. Trời còn lạnh nhưng lòng người vơi bớt nỗi lo bão lũ. Chút nắng hanh gợi người ta nôn nao nghĩ đến Tết. Tháng chạp -tháng người lớn bận rộn hơn, trẻ con náo nức hơn.
Thời nay nghe chuyện những người phụ nữ dành cả tháng chạp làm bánh mứt chỉ để gia đình ăn Tết, chắc có bạn trẻ không tin. Nhưng chuyện đó có thực với mẹ tôi, với quê tôi vào thập niên 60, nửa đầu thập niên 70 thế kỷ trước. Đó là thời thơ ấu và niên thiếu của tôi trải qua trong gia đình có ba làm công sở, mẹ nội trợ và đàn con đi học. Mẹ tôi không giỏi nữ công gia chánh hơn người khác mà chỉ là người phụ nữ chịu thương chịu khó, tận tụy lo cho chồng con bữa ăn, cái Tết đủ đầy.
Nhà có vườn nuôi nhiều gà. Tháng cuối năm, mẹ để trứng gà làm các món bánh. Thời đó đường cát trắng hiếm, mẹ dành dụm từng ký. Nhà chỉ ăn đường cục nông dân nấu từ nước mía, rút bớt mật. Kho dự trữ của mẹ còn có nếp, bột mì, bột huỳnh tinh, mè, đậu phộng... phơi khô cất kỹ. Hầu hết nguyên liệu làm bánh mứt không phải mua mà thu hoạch từ đám ruộng nếp, vài sào đất trồng mía và mảnh vườn của gia đình. Mẹ chắt chiu để dành từ khi cái Tết còn xa lắc.
Hai loại bánh Tết truyền thống của quê tôi là bánh nổ và bánh thuẫn. Bánh nổ tốn nhiều công, mẹ làm sớm nhất. Ngày Tết se lạnh, cắn từng miếng từ chiếc bánh vuông vắn, trắng mịn, giòn tan, cảm nhận vị ngọt thanh của đường, vị bùi của nếp nổ, chút gừng giã nát cay cay mà thấm thía nỗi vất vả của người làm nên cái bánh qua khá nhiều công đoạn. Bánh thuẫn ít công hơn. Yêu cầu cần đạt là bánh nở bốn cánh như đóa hoa, được tin là đem lại may mắn cho năm mới. Cũng có cái bánh không nở và đám trẻ con được ăn. Vì thế, không nói ra nhưng bọn nhỏ chúng tôi mừng thầm khi thấy vài cái bánh láng o như cái đầu hói!
Sau đó, mẹ làm bánh in, bánh hạt sen, bánh mè, mì xốp, bánh bó... Hồi đầu mẹ làm cả bánh và mứt. Khi chị ba, chị tư lớn lên, mẹ giao việc làm mứt cho hai chị. Hai món mứt chính là gừng và dừa. Các chị còn làm mứt khoai lang tỉa hình lá. Mứt cà rốt, đu đủ tỉa hình hoa, mứt me vàng ngà, mứt khế xanh xanh... Phần vụn của vừng, dừa, cà rốt... hai chị tỉ mỉ xắt sợi cùng trái thơm rim thành món mứt dẻo vàng óng. Gừng tốn nhiều công xắt, luộc, xả nước lạnh nhiều lần rồi mới rim. Tôi cùng chị sáu, anh bảy bưng đèn, xách rổ giúp chị ba, chị tư xả gừng nơi giếng cuối vườn. Đêm tháng chạp tối đen. Mấy chị em nói cười thật to cho đỡ sợ ma!
Hai chị ra riêng. Việc làm mứt giao cho chị sáu và tôi. Gần Tết, chị sáu học ở Huế mới về. Hai chị em thức đọc báo xuân, canh thau mứt liu riu trong bếp, bên ngoài gió đông rào rạt lạnh buốt. Cứ thế năm tiếp năm, bếp tháng chạp của mẹ thơm lừng mùi Tết. Đi học về tới sân, đám con nít đã hít hà. Chưa thay đồng phục đã chạy vào bếp chờ mẹ sai vặt và dúi cho vụn bánh mứt. Thích nhất là được cạo vét thau vừa rim mứt xong. Lớp mứt dẻo dẻo ở đáy thau không có gì ngon bằng. Đêm, đèn bếp sáng tận khuya. Hàng xóm cũng bận rộn làm bánh mứt, đôi khi chạy qua nhau học kinh nghiệm, xem thành quả của nhau. Và mùa xuân đang nhẹ bước tới gần. Thời gian chờ Tết dường như vui hơn Tết.
Sau 1975, cuộc sống khó khăn, mẹ chỉ làm một ít bánh mứt Tết. Tháng chạp của mẹ bớt rộn ràng. Các con lớn lên, rời quê. Mẹ ngày càng già yếu. Một lần về quê, tôi thấy bánh mứt Tết ở nhà là do mẹ mua. Vẫn là những món truyền thống. Mẹ không hình dung được việc cúng tổ tiên bằng bánh qui, bánh kem trong hộp thiếc và các thứ mứt ngoại nhập.
Ba mẹ lần lượt qua đời. Căn nhà cũ, gian giữa vẫn là phòng khách, có đặt bàn thờ Phật và bàn thờ ông bà, nay thêm di ảnh ba mẹ. Các phòng hai bên đám con gọi đùa là “khách sạn không đồng” dành cho ai ghé thăm vườn nhà xưa. Tôi về một lần Tết, nhận ra mùi hương tháng chạp không phải từ gian bếp vắng lặng của mẹ mà từ bếp nhà vợ chồng em trai, sát nhà ba mẹ. Cô em dâu trộn đường và gừng trong chiếc thau nhôm, đặt lên hỏa lò. Ba chị em ngồi bên lò than tí tách lửa hồng. Bên kia hàng rào vườn hàng xóm ướt đẫm một cơn mưa lạnh giá. Cậu em ôm guitar đàn hát mấy bản nhạc xuân. “Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người” (Nhớ một chiều xuân - Nguyễn Văn Đông). Không chỉ một người, tôi đang nhớ, rất nhớ những người thân yêu một thời bếp tháng chạp của mẹ rất rộn ràng, rất thơm, r
Có hôm mặt trời ló dạng, chiếu vài tia nắng yếu ớt lên mặt đất ẩm. Trời còn lạnh nhưng lòng người vơi bớt nỗi lo bão lũ. Chút nắng hanh gợi người ta nôn nao nghĩ đến Tết. Tháng chạp -tháng người lớn bận rộn hơn, trẻ con náo nức hơn.
Thời nay nghe chuyện những người phụ nữ dành cả tháng chạp làm bánh mứt chỉ để gia đình ăn Tết, chắc có bạn trẻ không tin. Nhưng chuyện đó có thực với mẹ tôi, với quê tôi vào thập niên 60, nửa đầu thập niên 70 thế kỷ trước. Đó là thời thơ ấu và niên thiếu của tôi trải qua trong gia đình có ba làm công sở, mẹ nội trợ và đàn con đi học. Mẹ tôi không giỏi nữ công gia chánh hơn người khác mà chỉ là người phụ nữ chịu thương chịu khó, tận tụy lo cho chồng con bữa ăn, cái Tết đủ đầy.
Nhà có vườn nuôi nhiều gà. Tháng cuối năm, mẹ để trứng gà làm các món bánh. Thời đó đường cát trắng hiếm, mẹ dành dụm từng ký. Nhà chỉ ăn đường cục nông dân nấu từ nước mía, rút bớt mật. Kho dự trữ của mẹ còn có nếp, bột mì, bột huỳnh tinh, mè, đậu phộng... phơi khô cất kỹ. Hầu hết nguyên liệu làm bánh mứt không phải mua mà thu hoạch từ đám ruộng nếp, vài sào đất trồng mía và mảnh vườn của gia đình. Mẹ chắt chiu để dành từ khi cái Tết còn xa lắc.
Hai loại bánh Tết truyền thống của quê tôi là bánh nổ và bánh thuẫn. Bánh nổ tốn nhiều công, mẹ làm sớm nhất. Ngày Tết se lạnh, cắn từng miếng từ chiếc bánh vuông vắn, trắng mịn, giòn tan, cảm nhận vị ngọt thanh của đường, vị bùi của nếp nổ, chút gừng giã nát cay cay mà thấm thía nỗi vất vả của người làm nên cái bánh qua khá nhiều công đoạn. Bánh thuẫn ít công hơn. Yêu cầu cần đạt là bánh nở bốn cánh như đóa hoa, được tin là đem lại may mắn cho năm mới. Cũng có cái bánh không nở và đám trẻ con được ăn. Vì thế, không nói ra nhưng bọn nhỏ chúng tôi mừng thầm khi thấy vài cái bánh láng o như cái đầu hói!
Sau đó, mẹ làm bánh in, bánh hạt sen, bánh mè, mì xốp, bánh bó... Hồi đầu mẹ làm cả bánh và mứt. Khi chị ba, chị tư lớn lên, mẹ giao việc làm mứt cho hai chị. Hai món mứt chính là gừng và dừa. Các chị còn làm mứt khoai lang tỉa hình lá. Mứt cà rốt, đu đủ tỉa hình hoa, mứt me vàng ngà, mứt khế xanh xanh... Phần vụn của vừng, dừa, cà rốt... hai chị tỉ mỉ xắt sợi cùng trái thơm rim thành món mứt dẻo vàng óng. Gừng tốn nhiều công xắt, luộc, xả nước lạnh nhiều lần rồi mới rim. Tôi cùng chị sáu, anh bảy bưng đèn, xách rổ giúp chị ba, chị tư xả gừng nơi giếng cuối vườn. Đêm tháng chạp tối đen. Mấy chị em nói cười thật to cho đỡ sợ ma!
Hai chị ra riêng. Việc làm mứt giao cho chị sáu và tôi. Gần Tết, chị sáu học ở Huế mới về. Hai chị em thức đọc báo xuân, canh thau mứt liu riu trong bếp, bên ngoài gió đông rào rạt lạnh buốt. Cứ thế năm tiếp năm, bếp tháng chạp của mẹ thơm lừng mùi Tết. Đi học về tới sân, đám con nít đã hít hà. Chưa thay đồng phục đã chạy vào bếp chờ mẹ sai vặt và dúi cho vụn bánh mứt. Thích nhất là được cạo vét thau vừa rim mứt xong. Lớp mứt dẻo dẻo ở đáy thau không có gì ngon bằng. Đêm, đèn bếp sáng tận khuya. Hàng xóm cũng bận rộn làm bánh mứt, đôi khi chạy qua nhau học kinh nghiệm, xem thành quả của nhau. Và mùa xuân đang nhẹ bước tới gần. Thời gian chờ Tết dường như vui hơn Tết.
Sau 1975, cuộc sống khó khăn, mẹ chỉ làm một ít bánh mứt Tết. Tháng chạp của mẹ bớt rộn ràng. Các con lớn lên, rời quê. Mẹ ngày càng già yếu. Một lần về quê, tôi thấy bánh mứt Tết ở nhà là do mẹ mua. Vẫn là những món truyền thống. Mẹ không hình dung được việc cúng tổ tiên bằng bánh qui, bánh kem trong hộp thiếc và các thứ mứt ngoại nhập.
Ba mẹ lần lượt qua đời. Căn nhà cũ, gian giữa vẫn là phòng khách, có đặt bàn thờ Phật và bàn thờ ông bà, nay thêm di ảnh ba mẹ. Các phòng hai bên đám con gọi đùa là “khách sạn không đồng” dành cho ai ghé thăm vườn nhà xưa. Tôi về một lần Tết, nhận ra mùi hương tháng chạp không phải từ gian bếp vắng lặng của mẹ mà từ bếp nhà vợ chồng em trai, sát nhà ba mẹ. Cô em dâu trộn đường và gừng trong chiếc thau nhôm, đặt lên hỏa lò. Ba chị em ngồi bên lò than tí tách lửa hồng. Bên kia hàng rào vườn hàng xóm ướt đẫm một cơn mưa lạnh giá. Cậu em ôm guitar đàn hát mấy bản nhạc xuân. “Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người” (Nhớ một chiều xuân - Nguyễn Văn Đông). Không chỉ một người, tôi đang nhớ, rất nhớ những người thân yêu một thời bếp tháng chạp của mẹ rất rộn ràng, rất thơm, r