linh_449
Linh Linhh
Tác giả của quyển sách này là Takabe Daion, một nhân viên của Đại học Tama. Ông Takabe cho biết rằng, dựa trên kinh nghiệm cá nhân của mình và sự giao tiếp với nhiều học sinh trung học và đại học, ông đã nhận ra rằng "xã hội Nhật Bản áp đặt một cách quá đáng việc phải có giấc mơ và đây đã trở thành một dạng quấy rối". Vậy thì điều gì đang xảy ra trong lĩnh vực giáo dục?
Ghi chú: "Dream Harassment" là một thuật ngữ do tác giả sáng tạo để chỉ hành vi áp đặt hoặc ép buộc những giấc mơ không thực tế lên thanh niên, gây áp lực và căng thẳng cho họ.
---
Takabe Daion (高部大問), sinh năm 1986 tại tỉnh Osaka. Sau khi tốt nghiệp Đại học Keio Gijuku, ông đã đi du học tại Trung Quốc và sau đó vào làm việc tại Recruit vào năm 2010. Năm 2014, ông chuyển sang làm việc tại Đại học Tama và đã tham gia vào việc hỗ trợ hướng nghiệp cho sinh viên. Ông cũng đã có nhiều hoạt động diễn thuyết dành cho học sinh trung học và cao đẳng. Ông cũng có kinh nghiệm nghỉ việc để chăm sóc con cái.
---
Phóng viên: Vì sao ông viết về vấn đề này?
Tác giả:
Trong những buổi diễn thuyết hướng nghiệp, tôi từng nói rằng "Ước mơ không phải là thứ bắt buộc phải có trong hành trình đến tương lai của bạn". Thế là qua kết quả khảo sát hơn 10.000 người, tác giả nhận ra có đến 2000 bạn trẻ đang trăn trở vì bản thân không hề có ước mơ.
Thực tế là, từ khi còn là một đứa trẻ, tôi chưa từng có giấc mơ. Khi còn là học sinh tiểu học, tôi viết rằng "Muốn trở thành cầu thủ bóng đá" nhưng thực ra đó chỉ là một suy nghĩ không đúng sự thật. Sau khi tốt nghiệp đại học và làm việc tại Recruit, tôi đã có cơ hội phỏng vấn các quan chức. Khi tôi hỏi họ "Bạn có ước mơ từ thời trẻ không?", có người trả lời "Không có". Tuy nhiên, dù vậy họ vẫn làm việc hạnh phúc trong công ty, và tôi đã cảm nhận rằng "giấc mơ không phải là một yếu tố bắt buộc trong cuộc sống".
Khi tôi sử dụng thuật ngữ "Dorihara", có người phản đối rằng "Chúng tôi chỉ nghĩ cho lợi ích của trẻ em, không có gì sai cả". Tuy nhiên, tôi muốn hỏi các bạn có thực sự đang đưa ra những lời này với ý đồ tốt cho trẻ em không? Có ý đồ hoặc mục đích "móc giấc mơ như một củ cà rốt và trẻ em sẽ chạy theo" ẩn sau lời nói không? Có phải bạn đang sử dụng giấc mơ như một công cụ để ép buộc trẻ em nỗ lực trong việc làm việc ngay trước mắt không?
Mà cho dù lời nói ấy có ý đồ gì đi nữa, trẻ em sẽ luôn tiếp nhận lmột cách nghiêm túc. Vì vậy, những trẻ em không thể tìm thấy giấc mơ sẽ khổ sở khi nghĩ rằng "Tôi thật vô dụng khi sống mà không có ước mơ?".
Như vậy rõ ràng ép buộc trẻ có ước mơ là một hành vi quấy rối.
---
"Ước mơ" là một công cụ hữu ích để dẫn dắt trẻ em theo hướng mà người lớn mong muốn.
Cụm từ "Hãy có ước mơ" nổi lên từ những năm 2000 trở đi. Đó là thời điểm mà các vấn đề về việc làm của trẻ em như "freeter" (người làm công việc tạm thời) hay "NEET" (không có việc làm, không tiếp tục học tập) trở nên phổ biến. "Ước mơ" là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều khi cố gắng khuyến khích ý chí làm việc của trẻ em. Vì khi các bạn trẻ càng nghiêm túc với ước mơ sẽ càng có động lực mạnh mẽ.
---
Thuật ngữ "Giáo dục nghề nghiệp" cũng bắt đầu được sử dụng rộng rãi vào thời điểm tương tự và với mục đích tương tự là tăng cường động lực làm việc của thanh niên.
Giáo dục nghề nghiệp, ban đầu, không chỉ liên quan đến việc phát triển quan điểm nghề nghiệp mà còn hỗ trợ kế hoạch cuộc sống và cách sống chân thật với bản thân. Tuy nhiên, ở Nhật Bản, nó thường tập trung quá mức vào khía cạnh nghề nghiệp. Và do đó, cụm từ "Ước mơ" thường được sử dụng thường xuyên trong giáo dục nghề nghiệp tại Nhật Bản. Chính vì vậy khái niệm "Ước mơ" vào thời điểm đó thường ám chỉ đến "nghề nghiệp".
---
Khi bàn tới "Ước mơ", người ta thường đánh đồng với vấn đề về ý chí. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều người sống mà không hề có ước mơ, và nó cũng là điều bình thường. Thế nhưng những người không có ước mơ lại hay bị đánh giá là ý chí kém cỏi. Vô tình những áp đặt này khiến những người trẻ luôn tự chỉ trích bản thân.
Trong lĩnh vực giáo dục, còn có những tình huống mà học sinh bị ép buộc phải công bố ước mơ trước toàn bộ lớp, viết về ước mơ trong tuyển tập bút ký tốt nghiệp, hoặc bị hỏi về ước mơ trong những buổi tư vấn hướng nghiệp. Tất nhiên, ước mơ thường ít có khả năng hiện thực hoá. Trong số những đứa trẻ từng mơ ước thành cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp, số lượng thực sự trở thành cầu thủ là bao nhiêu?
Nếu ta tiếp tục áp đặt "hãy có ước mơ" một cách quá mức, nếu những người trẻ không thể đạt được ước mơ đó, có nguy cơ họ sẽ tự dày vò bản thân quá mức.
---
Đối xử tôn trọng với thế giới của người trẻ.
Trước đây, tôi đã đọc một bài post nói rằng "Khi tôi viết 'Muốn trở thành YouTuber trong tương lai', giáo viên chủ nhiệm đã tức giận và hỏi 'Liệu bạn đã xin phép giáo viên chủ nhiệm chưa'".
Điều này chứng tỏ người trẻ không được phép có "ước mơ" trong phạm vi mà người lớn không rành về nó. Giấc mơ tồn tại vì sự an lòng của người lớn, và giấc mơ được phép chia sẻ chỉ trong phạm vi an toàn.
"Muốn trở thành ABC" phải thuộc vào phạm vi mà người lớn có thể tư vấn. Nhiều bạn trẻ tinh ý nhận ra tâm lý này nên cố tình kể về những "ước mơ mà người lớn thích nghe". Kết quả là những gì người trẻ nhận được chỉ là khả năng thích ứng cao với mong muốn của người lớn, và những "ước mơ" thực sự của họ hoàn toàn bị bẻ cong cho phù hợp.
Người lớn luôn khuyến khích người trẻ "hãy có một giấc mơ", nhưng nếu ai đó nói ra một giấc mơ không thực tế, người lớn sẽ chỉ trích rằng "vớ vẩn", "hãy suy nghĩ về khả năng của mình". Người lớn thật lật lọng. Tôi cũng là một thành viên trong xã hội người lớn, nhưng tôi nghĩ người lớn thật sự là những sinh vật xảo trá.
---
Phóng viên:
Tuy nhiên, ông không phủ nhận việc có giấc mơ. Vậy người lớn nên làm thế nào khi tiếp cận với người trẻ?
Tác giả:
Tôi không phủ nhận cách sống có một giấc mơ và cố gắng hướng tới giấc mơ đó.
Những gì tôi muốn nói là liệu chỉ có một lựa chọn là cách sống được hậu thuẫn bởi cả quốc gia, cách sống PHẢI CÓ ƯỚC MƠ không?
Tôi cho rằng cũng cần công nhận cách sống mà không tìm thấy ước mơ, không có ước mơ.
Mọi công việc đều có giá trị. Và như ai đó đã nói, "Cứ làm thử, có khi sẽ tìm ra niềm hứng khởi". Ta vẫn có thể tìm thấy đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống và công việc sau khi đã hoàn thành việc của mình.
Ghi chú: "Dream Harassment" là một thuật ngữ do tác giả sáng tạo để chỉ hành vi áp đặt hoặc ép buộc những giấc mơ không thực tế lên thanh niên, gây áp lực và căng thẳng cho họ.
---
Takabe Daion (高部大問), sinh năm 1986 tại tỉnh Osaka. Sau khi tốt nghiệp Đại học Keio Gijuku, ông đã đi du học tại Trung Quốc và sau đó vào làm việc tại Recruit vào năm 2010. Năm 2014, ông chuyển sang làm việc tại Đại học Tama và đã tham gia vào việc hỗ trợ hướng nghiệp cho sinh viên. Ông cũng đã có nhiều hoạt động diễn thuyết dành cho học sinh trung học và cao đẳng. Ông cũng có kinh nghiệm nghỉ việc để chăm sóc con cái.
---
Phóng viên: Vì sao ông viết về vấn đề này?
Tác giả:
Trong những buổi diễn thuyết hướng nghiệp, tôi từng nói rằng "Ước mơ không phải là thứ bắt buộc phải có trong hành trình đến tương lai của bạn". Thế là qua kết quả khảo sát hơn 10.000 người, tác giả nhận ra có đến 2000 bạn trẻ đang trăn trở vì bản thân không hề có ước mơ.
Thực tế là, từ khi còn là một đứa trẻ, tôi chưa từng có giấc mơ. Khi còn là học sinh tiểu học, tôi viết rằng "Muốn trở thành cầu thủ bóng đá" nhưng thực ra đó chỉ là một suy nghĩ không đúng sự thật. Sau khi tốt nghiệp đại học và làm việc tại Recruit, tôi đã có cơ hội phỏng vấn các quan chức. Khi tôi hỏi họ "Bạn có ước mơ từ thời trẻ không?", có người trả lời "Không có". Tuy nhiên, dù vậy họ vẫn làm việc hạnh phúc trong công ty, và tôi đã cảm nhận rằng "giấc mơ không phải là một yếu tố bắt buộc trong cuộc sống".
Khi tôi sử dụng thuật ngữ "Dorihara", có người phản đối rằng "Chúng tôi chỉ nghĩ cho lợi ích của trẻ em, không có gì sai cả". Tuy nhiên, tôi muốn hỏi các bạn có thực sự đang đưa ra những lời này với ý đồ tốt cho trẻ em không? Có ý đồ hoặc mục đích "móc giấc mơ như một củ cà rốt và trẻ em sẽ chạy theo" ẩn sau lời nói không? Có phải bạn đang sử dụng giấc mơ như một công cụ để ép buộc trẻ em nỗ lực trong việc làm việc ngay trước mắt không?
Mà cho dù lời nói ấy có ý đồ gì đi nữa, trẻ em sẽ luôn tiếp nhận lmột cách nghiêm túc. Vì vậy, những trẻ em không thể tìm thấy giấc mơ sẽ khổ sở khi nghĩ rằng "Tôi thật vô dụng khi sống mà không có ước mơ?".
Như vậy rõ ràng ép buộc trẻ có ước mơ là một hành vi quấy rối.
---
"Ước mơ" là một công cụ hữu ích để dẫn dắt trẻ em theo hướng mà người lớn mong muốn.
Cụm từ "Hãy có ước mơ" nổi lên từ những năm 2000 trở đi. Đó là thời điểm mà các vấn đề về việc làm của trẻ em như "freeter" (người làm công việc tạm thời) hay "NEET" (không có việc làm, không tiếp tục học tập) trở nên phổ biến. "Ước mơ" là một thuật ngữ được sử dụng rất nhiều khi cố gắng khuyến khích ý chí làm việc của trẻ em. Vì khi các bạn trẻ càng nghiêm túc với ước mơ sẽ càng có động lực mạnh mẽ.
---
Thuật ngữ "Giáo dục nghề nghiệp" cũng bắt đầu được sử dụng rộng rãi vào thời điểm tương tự và với mục đích tương tự là tăng cường động lực làm việc của thanh niên.
Giáo dục nghề nghiệp, ban đầu, không chỉ liên quan đến việc phát triển quan điểm nghề nghiệp mà còn hỗ trợ kế hoạch cuộc sống và cách sống chân thật với bản thân. Tuy nhiên, ở Nhật Bản, nó thường tập trung quá mức vào khía cạnh nghề nghiệp. Và do đó, cụm từ "Ước mơ" thường được sử dụng thường xuyên trong giáo dục nghề nghiệp tại Nhật Bản. Chính vì vậy khái niệm "Ước mơ" vào thời điểm đó thường ám chỉ đến "nghề nghiệp".
---
Khi bàn tới "Ước mơ", người ta thường đánh đồng với vấn đề về ý chí. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều người sống mà không hề có ước mơ, và nó cũng là điều bình thường. Thế nhưng những người không có ước mơ lại hay bị đánh giá là ý chí kém cỏi. Vô tình những áp đặt này khiến những người trẻ luôn tự chỉ trích bản thân.
Trong lĩnh vực giáo dục, còn có những tình huống mà học sinh bị ép buộc phải công bố ước mơ trước toàn bộ lớp, viết về ước mơ trong tuyển tập bút ký tốt nghiệp, hoặc bị hỏi về ước mơ trong những buổi tư vấn hướng nghiệp. Tất nhiên, ước mơ thường ít có khả năng hiện thực hoá. Trong số những đứa trẻ từng mơ ước thành cầu thủ bóng chày chuyên nghiệp, số lượng thực sự trở thành cầu thủ là bao nhiêu?
Nếu ta tiếp tục áp đặt "hãy có ước mơ" một cách quá mức, nếu những người trẻ không thể đạt được ước mơ đó, có nguy cơ họ sẽ tự dày vò bản thân quá mức.
---
Đối xử tôn trọng với thế giới của người trẻ.
Trước đây, tôi đã đọc một bài post nói rằng "Khi tôi viết 'Muốn trở thành YouTuber trong tương lai', giáo viên chủ nhiệm đã tức giận và hỏi 'Liệu bạn đã xin phép giáo viên chủ nhiệm chưa'".
Điều này chứng tỏ người trẻ không được phép có "ước mơ" trong phạm vi mà người lớn không rành về nó. Giấc mơ tồn tại vì sự an lòng của người lớn, và giấc mơ được phép chia sẻ chỉ trong phạm vi an toàn.
"Muốn trở thành ABC" phải thuộc vào phạm vi mà người lớn có thể tư vấn. Nhiều bạn trẻ tinh ý nhận ra tâm lý này nên cố tình kể về những "ước mơ mà người lớn thích nghe". Kết quả là những gì người trẻ nhận được chỉ là khả năng thích ứng cao với mong muốn của người lớn, và những "ước mơ" thực sự của họ hoàn toàn bị bẻ cong cho phù hợp.
Người lớn luôn khuyến khích người trẻ "hãy có một giấc mơ", nhưng nếu ai đó nói ra một giấc mơ không thực tế, người lớn sẽ chỉ trích rằng "vớ vẩn", "hãy suy nghĩ về khả năng của mình". Người lớn thật lật lọng. Tôi cũng là một thành viên trong xã hội người lớn, nhưng tôi nghĩ người lớn thật sự là những sinh vật xảo trá.
---
Phóng viên:
Tuy nhiên, ông không phủ nhận việc có giấc mơ. Vậy người lớn nên làm thế nào khi tiếp cận với người trẻ?
Tác giả:
Tôi không phủ nhận cách sống có một giấc mơ và cố gắng hướng tới giấc mơ đó.
Những gì tôi muốn nói là liệu chỉ có một lựa chọn là cách sống được hậu thuẫn bởi cả quốc gia, cách sống PHẢI CÓ ƯỚC MƠ không?
Tôi cho rằng cũng cần công nhận cách sống mà không tìm thấy ước mơ, không có ước mơ.
Mọi công việc đều có giá trị. Và như ai đó đã nói, "Cứ làm thử, có khi sẽ tìm ra niềm hứng khởi". Ta vẫn có thể tìm thấy đầy đủ ý nghĩa của cuộc sống và công việc sau khi đã hoàn thành việc của mình.
Đính kèm
-
121.5 KB Xem: 55