Quang Minh
Well-known member
Honda Dream II là mẫu xe "hot" hơn 30 năm trước vì vẻ ngoài nịnh mắt, ít lỗi vặt và bền bỉ với thời gian.
58
Honda Dream II là mẫu xe máy được nhập từ Thái Lan vào những năm đầu thập niên 90. Vào giai đoạn đầu, tức khoảng 1992, Dream II bán ra với bản tem hồng, những năm sau, phiên bản tem lửa xuất hiện và được khách hàng ưa chuộng hơn cả.
Mẫu Dream II trong bài là phiên bản tem lửa, thuộc sở hữu một người tại Rạch Giá, đăng ký lần đầu vào 1994.
Cái tên "tem lửa" đến từ việc các decal trên xe sử dụng tông màu đỏ tươi, như ngọn lửa. Màu sắc này tạo hiệu ứng tương phản rõ nét, khiến xe trở nên nổi bật hơn phiên bản tem hồng.
Cụm đèn xe nguyên bản, các chức năng cos/pha, báo rẽ hoạt động tốt, nhưng độ sáng của đèn kém, khả năng chiếu sáng ban đêm không cao.
Honda Dream II sử dụng động cơ có dung tích thực 97 phân khối, công suất 8 mã lực tại vòng tua máy 8.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 8,1 Nm tại vòng tua máy 6.000 vòng/phút.
Ở phần yếm xe có gắn logo "quả đào" in tên công nghệ động cơ Econo Power II.
Xe sử dụng hộp số tròn 4 cấp. Khối động cơ được dập nổi tên thương hiệu, cùng dòng chữ "Made in Japan" ở phía dưới.
Xe có trang bị cần đạp khởi động. Theo chủ nhân, cho đến nay cần đạp này vẫn hoạt động tốt, chỉ cần đạp một lần là nổ máy. Tuy nhiên nếu ít sử dụng sẽ cần đạp từ 2 lần trở lên.
Đồng hồ công-tơ-mét hiển thị mức trên 5.000 km và đã "reset" một lần, tức qua ngưỡng 99.999 km. Như vậy xe đã di chuyển được khoảng 105.000 km sau 30 năm sử dụng, trung bình mỗi năm đi khoảng 3.500 km, con số rất ít.
Phía tay lái bên phải có nút đề cỡ lớn đã bị phai màu sau thời gian, cùng công tắc đèn. Xe vẫn có thể nổ máy bằng đề mượt mà.
Tay lái bên trái là nút cos/pha, công tắc đèn báo rẽ, còi và cần kéo "le gió", khi kéo bướm gió khép lại, hỗn hợp xăng-gió vào động cơ giàu xăng hơn, giúp xe dễ khởi động.
Xe sử dụng vành nan hoa, phuộc đôi cho cả bánh trước và sau, phuộc sau có thể điều chỉnh độ nén lò xo (preload) để phù hợp đi một mình hoặc chở người ngồi sau.
Phanh đùm là trang bị tiêu chuẩn cho cả bánh trước và sau. Lốp, phanh là hai bộ phận đã được thay thế trên mẫu Dream II này.
Yên xe nguyên bản thon gọn, cho cảm giác ngồi thẳng người, êm ái cho cả người trước và sau. Sau thời gian sử dụng một số chỗ trên yên đã bị rách, sờn.
Cụm đèn phía sau gọn gàng, bo theo thân xe, đèn hậu và đèn báo rẽ (xi-nhan) lớn. Xe trang bị tay nắm yên.
Dream II gần như không có cốp, chỉ là một ngăn nhỏ dưới yên để vừa giấy tờ, bộ dụng cụ sửa xe đơn giản hoặc khăn lau xe. Do đó, các mẫu Dream II thường được chủ xe gắn thêm các phụ kiện như giá đỡ ba-ga, móc đồ hoặc giỏ xe phía trước.
Chủ nhân tiết lộ mức giá mua xe vào thời điểm 1994 là khoảng 28 triệu đồng. Giá của xe thời này thường được quy đổi ra vàng, là tài sản giá trị cao trong mỗi gia đình, có thể tương đương với đất hoặc nhà.
Hiện chủ nhân của chiếc Dream II vẫn sử dụng xe hàng ngày, thay dầu và các chi tiết hao mòn định kỳ. Ông cho biết xe vẫn hoạt động tốt, phù hợp với nhu cầu di chuyển trong phố 30 năm qua, nên không có ý định đổi sang mẫu xe khác.
58
Honda Dream II là mẫu xe máy được nhập từ Thái Lan vào những năm đầu thập niên 90. Vào giai đoạn đầu, tức khoảng 1992, Dream II bán ra với bản tem hồng, những năm sau, phiên bản tem lửa xuất hiện và được khách hàng ưa chuộng hơn cả.
Mẫu Dream II trong bài là phiên bản tem lửa, thuộc sở hữu một người tại Rạch Giá, đăng ký lần đầu vào 1994.
Cái tên "tem lửa" đến từ việc các decal trên xe sử dụng tông màu đỏ tươi, như ngọn lửa. Màu sắc này tạo hiệu ứng tương phản rõ nét, khiến xe trở nên nổi bật hơn phiên bản tem hồng.
Cụm đèn xe nguyên bản, các chức năng cos/pha, báo rẽ hoạt động tốt, nhưng độ sáng của đèn kém, khả năng chiếu sáng ban đêm không cao.
Honda Dream II sử dụng động cơ có dung tích thực 97 phân khối, công suất 8 mã lực tại vòng tua máy 8.000 vòng/phút, mô-men xoắn cực đại 8,1 Nm tại vòng tua máy 6.000 vòng/phút.
Ở phần yếm xe có gắn logo "quả đào" in tên công nghệ động cơ Econo Power II.
Xe sử dụng hộp số tròn 4 cấp. Khối động cơ được dập nổi tên thương hiệu, cùng dòng chữ "Made in Japan" ở phía dưới.
Xe có trang bị cần đạp khởi động. Theo chủ nhân, cho đến nay cần đạp này vẫn hoạt động tốt, chỉ cần đạp một lần là nổ máy. Tuy nhiên nếu ít sử dụng sẽ cần đạp từ 2 lần trở lên.
Đồng hồ công-tơ-mét hiển thị mức trên 5.000 km và đã "reset" một lần, tức qua ngưỡng 99.999 km. Như vậy xe đã di chuyển được khoảng 105.000 km sau 30 năm sử dụng, trung bình mỗi năm đi khoảng 3.500 km, con số rất ít.
Phía tay lái bên phải có nút đề cỡ lớn đã bị phai màu sau thời gian, cùng công tắc đèn. Xe vẫn có thể nổ máy bằng đề mượt mà.
Tay lái bên trái là nút cos/pha, công tắc đèn báo rẽ, còi và cần kéo "le gió", khi kéo bướm gió khép lại, hỗn hợp xăng-gió vào động cơ giàu xăng hơn, giúp xe dễ khởi động.
Xe sử dụng vành nan hoa, phuộc đôi cho cả bánh trước và sau, phuộc sau có thể điều chỉnh độ nén lò xo (preload) để phù hợp đi một mình hoặc chở người ngồi sau.
Phanh đùm là trang bị tiêu chuẩn cho cả bánh trước và sau. Lốp, phanh là hai bộ phận đã được thay thế trên mẫu Dream II này.
Yên xe nguyên bản thon gọn, cho cảm giác ngồi thẳng người, êm ái cho cả người trước và sau. Sau thời gian sử dụng một số chỗ trên yên đã bị rách, sờn.
Cụm đèn phía sau gọn gàng, bo theo thân xe, đèn hậu và đèn báo rẽ (xi-nhan) lớn. Xe trang bị tay nắm yên.
Dream II gần như không có cốp, chỉ là một ngăn nhỏ dưới yên để vừa giấy tờ, bộ dụng cụ sửa xe đơn giản hoặc khăn lau xe. Do đó, các mẫu Dream II thường được chủ xe gắn thêm các phụ kiện như giá đỡ ba-ga, móc đồ hoặc giỏ xe phía trước.
Chủ nhân tiết lộ mức giá mua xe vào thời điểm 1994 là khoảng 28 triệu đồng. Giá của xe thời này thường được quy đổi ra vàng, là tài sản giá trị cao trong mỗi gia đình, có thể tương đương với đất hoặc nhà.
Hiện chủ nhân của chiếc Dream II vẫn sử dụng xe hàng ngày, thay dầu và các chi tiết hao mòn định kỳ. Ông cho biết xe vẫn hoạt động tốt, phù hợp với nhu cầu di chuyển trong phố 30 năm qua, nên không có ý định đổi sang mẫu xe khác.