Việt Nam có thể nhập tới 8.000 MW điện từ Lào đến 2030

Nguyễn Thị Hồng

Well-known member
Sản lượng điện nhập khẩu từ Lào có thể lên tới 8.000 MW đến 2030, với giá hợp lý để tận dụng tiềm năng năng lượng nước này.

Nội dung trên được nêu tại Kế hoạch thực hiện Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050 (Quy hoạch điện VIII) được Phó thủ tướng Trần Hồng Hà ký hôm nay. Đây là cơ sở để các doanh nghiệp, nhà đầu tư thực hiện các dự án nằm trong Quy hoạch điện VIII đã được duyệt.

Theo kế hoạch, tổng công suất nhập khẩu điện từ Lào khoảng 5.000 MW, có thể tăng lên 8.000 MW khi điều kiện thuận lợi và giá hợp lý để tận dụng tiềm năng nguồn điện xuất khẩu của nước này. Cùng đó, ngành điện cũng ưu tiên đầu tư các dự án lưới truyền tải kết nối với nước láng giềng, đường dây dự phòng cho tăng trưởng nhu cầu điện và phát triển nguồn khu vực, gồm nhập khẩu.

Thực tế, Việt Nam đã mua điện của Lào, chủ yếu là thủy điện, từ năm 2016 theo thỏa thuận hợp tác liên Chính phủ hai nước. Hiện, điện từ Lào nhập về Việt Nam được truyền tải qua đường dây 220 kV. Tuy nhiên, từ năm ngoái lượng điện mua từ nước láng giềng bắt đầu tăng khi miền Bắc thiếu điện.

Dự báo miền Bắc có thể thiếu khoảng 6,8 tỷ kWh trong cao điểm mùa khô (tháng 5, 7) năm 2025 do các nguồn điện mới vào vận hành rất ít, chủ yếu rơi vào thời điểm cuối năm. Do đó, ngoài các nguồn trong nước, việc mua điện của Lào sẽ bổ sung thêm đáng kể công suất, đảm bảo cung ứng điện cho miền Bắc những năm tới.


Ngoài thủy điện, Bộ Công Thương đang đề xuất Chính phủ nhập thêm điện gió từ Lào.

Tại kế hoạch này, Chính phủ đưa ra danh mục các dự án nguồn điện quan trọng, ưu tiên đầu tư tới năm 2030. Trong đó, các dự án điện khí 14.930 MW, LNG 22.400 MW và điện than khoảng 30.127 MW. Tới 2030, thủy điện sẽ phát triển thêm 29.346 MW, thủy điện tích năng 2.400 MW.

Với năng lượng tái tạo, tổng công suất điện gió ngoài khơi là 6.000 MW, điện gió trên bờ 21.880 MW, mặt trời mái nhà (tự sản, tự tiêu) tăng thêm 2.600 MW. Ngoài ra, điện sinh khối và rác lần lượt 1.088 MW và 1.182 MW. Còn nguồn điện linh hoạt (điện tái tạo kết hợp điện khí, pin lưu trữ năng lượng...) dự kiến phát triển 300 MW.

Cũng theo kế hoạch, điện tái tạo dành cho xuất khẩu sẽ được đầu tư tại miền Trung và Nam - những nơi có nhiều tiềm năng loại nguồn này. Quy mô xuất khẩu dự kiến từ 5.000-10.000 MW.

Các dự án dùng điện tái tạo để sản xuất, như hydro xanh, amoniac xanh được phát triển tại các khu vực tiềm năng, có cơ sở hạ tầng lưới truyền tải thuận lợi, quy mô khoảng 5.000 MW.

Kế hoạch cũng đặt mục tiêu nghiên cứu xây dựng hai trung tâm công nghiệp, dịch vụ năng lượng tái tạo liên vùng. Trong đó, trung tâm ở Bắc Bộ sẽ gồm các địa phương Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, phát triển 2.500 MW điện gió, trong đó điện gió ngoài khơi là 2.000 MW.

Trung tâm vùng Nam Trung Bộ - Nam Bộ tại khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP HCM, quy mô điện gió ngoài khơi khoảng 2.000-2.500 MW, điện gió trên bờ và ven bờ 1.500-2.000 MW.

Quy hoạch Điện VIII đã được Thủ tướng phê duyệt vào tháng 5/2023. Như vậy, gần một năm sau, bản kế hoạch - căn cứ để thực hiện quy hoạch này, mới được cấp có thẩm quyền ban hành. Giải thích lý do chậm trễ, tại họp báo hôm 29/3, đại diện Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo cho hay, Bộ Công Thương đã 6 lần trình Chính phủ dự thảo của kế hoạch này. Tuy nhiên, một số địa phương gửi danh mục dự án điện tái tạo chậm, không đáp ứng yêu cầu.
Vì thế, danh mục dự án năng lượng tái tạo của 17 địa phương chưa được rà soát, đưa vào kế hoạch lần này.
 
Bên trên